Quẻ số 1: Thuần Càn (Càn vi Thiên)

Tuất --- Thổ --- Phụ Mẫu (Thế)
Thân --- Kim --- Huynh đệ
Ngọ --- Hoả --- Quan quỷ
Thìn --- Thổ --- Phụ Mẫu (Ứng)
Dần --- Mộc --- Thê Tài
Tý --- Thuỷ --- Tử Tôn

Thông tin quẻ

  • Tên quẻ: Thuần Càn (乾 qián) hay còn gọi là quẻ Càn (乾 qián) Hoặc Càn Vi Thiên
  • Ngũ hành quẻ: Kim
  • Nội quái là: ☰ (||| 乾 qián) Càn hay Trời (天).
  • Ngoại quái là: ☰ (||| 乾 qián) Càn hay Trời (天).

Giải nghĩa: Kiện dã. Chính yếu. Cứng mạnh, khô, lớn, khỏe mạnh, đức không nghỉ. Nguyên Khang Hanh Lợi Trinh chi tượng: tượng vạn vật có khởi đầu, lớn lên, toại chí, hóa thành.

Dịch: Càn (có bốn đức – đặc tính): đầu tiên và lớn, hanh thông, thích đáng, chính và bền.

Giảng: Văn Vương cho rằng bói được quẻ này thì rất tốt, hanh thông, có lợi và tất giữ vững được cho tới lúc cuối cùng.

Về sau, tác giả Thoán truyện (tương truyền là Khổng tử, nhưng không chắc), cho quẻ này một ý nghĩa về vũ trụ, Càn gồm sáu hào đều là dương cả, có nghĩa rất cương kiện, tượng trưng cho trời.

Trời có đức “nguyên” vì là nguồn gốc của vạn vật; có đức “hanh” vì làm ra mây, mưa để cho vạn vật sinh trưởng đến vô cùng, có đức “lợi” và “trinh” vì biến hóa, khiến cho vật gì cũng giữ được bẩm tính được nguyên khí cho thái hòa (cực hòa) .

Bậc thánh nhân đứng đầu muôn vật, theo đạo Càn thì thiên hạ bình an vô sự.

Tác giả Văn Ngôn truyện cho quẻ này thêm một ý nghĩa nữa về nhân sinh, đạo đức. Càn tượng trưng cho người quân tử. Người quân tử có bốn đức:

  • Nhân, đức lớn nhất, gốc của lòng người, tức như đức “nguyên” của trời.
  • Lễ, là hợp với đạo lý, hợp với đạo lý thì hanh thông, cho nên lễ tức như đức “hanh” của trời.
  • Nghĩa, đức này làm cho mọi người được vui vẻ sung sướng, tức như đức “lợi” của trời.
  • Trí, là sáng suốt, biết rõ thị phị, có biết thị phi mới làm được mọi việc cho nên nó là đức cốt cán, cũng như đức “trinh” chính và bền – của trời.

Nguyên, hanh, lợi , trinh mà giảng thành nhân, lễ, nghĩa, trí, (bốn đức chính của đạo Nho) thì rõ là chịu ảnh hưởng nặng của Nho gia mà ý nghĩa và công dụng của Dịch đã thay đổi khá nhiều rồi.

Trở lên trên là cách hiểu của tiên Nho, các nhà Nho chính thống. Còn vài cách hiểu “mới mẻ” hơn của một số học giả gần đây, như phùng Hữu Lan, Tào Thăng, Cao Hanh.

Hào từ:

Từ đây trở xuống là Hào từ, lời Chu Công đoán về mỗi hào.

初 九: 潛 龍 勿 用

Sơ cửu: Tiềm long vật dụng.

Dịch: hào 1 dương: Rồng còn ẩn náu, chưa (đem tài ra) dùng được.

Giảng: Người Trung Hoa cho con rồng là thần vật, rất biến hóa, lúc ẩn lúc hiện, mà lại thuộc về lòai dương, cho nên chu Công dùng nó để cho ta dễ thấy ý nghĩa các hào – đều là dương cả – trong quẻ Càn.

Hào 1, ở dưới thấp nhất, cho nên ví nó với con rồng còn nấp ở dưới vực sâu, chưa thể làm mây biến hóa được, còn phải đợi thời. Ý nghĩa rất rõ, Tiểu tượng truyện không giảng gì thêm. Còn Văn Ngôn truyện thì bàn rộng ra về cách sử sự của bâc thánh nhân, người quân tử : chưa gặp thời thì nên tu đức, luyện tài, không vì thế tục mà đổi chí, không cầu danh, ở ẩn, không ai biết mình cũng không buồn, không gì lay chuyển được chí của mình.

九 二 : 見 龍 在 田 . 利 見 大 人 .

Cửu nhị: Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân.

Dịch: Hào 2, dương: rồng đã hiện ở cánh đồng, ra mắt đại nhân thì lợi.

Giảng: hào 2 là dương, ở giữa nội quái là đắc trung, như vậy là gặp thời, tài đức giúp ích cho đời được: lại thêm hào ứng với nó là hào 5, cũng là dương, cũng đắc trung (vì ở giữa ngọai quái); cho nên hào 2 có thể ví với con rồng đã rời vực mà hiện lên cánh đồng; mà cũng như người có tài đức gặp thời, nên kiến đại nhân).

Văn ngôn: khuyên người có tài đức gặp thời này nên giữ đức tín, đức thận trọng trong ngôn, hành, tránh tà bậy, giữ lòng thành, giúp đời mà không khoe công, như vậy là giữ được đức trung chính của hào 2.

九 三: 君 子 終 日 乾 乾, 夕 惕 若. 厲, 无 咎.

Cửu tam: Quân tử chung nhật càn càn, tịch dịch nhược. Lệ, vô cữu.

Dịch: hào 3, dương: Người quân tử mỗi ngày hăng hái tự cường, đến tối vẫn còn thận trọng như lo sợ. Nguy hiểm, nhưng không tôi lỗi.

Giảng: Hào 3 là dương lại ở vị ngôi dương, như vậy là rất cương, mà không đắc trung. Hơn nữa, nó ở trên cùng nội quái mà chưa tiến lên ngọai quái, nghĩa là ở một chỗ chông chênh, rất khó xử, cho nên bảo là nguy hiểm (lệ). Nhưng nó vẫn là quân tử, có đức tự cường không ngừng, rất thận trọng, lúc nào cũng như lo sợ, cho nên tuy gặp thời nguy mà cũng không đến nỗi tội lỗi.

Văn ngôn bàn thêm: người quân tử giữ trung tín để tiến đức; sửa lời nói (lập ngôn) vững lòng thành để lập sự nghiệp . . .nhờ vậy mà thấu được đạo lý, giữ được điều nghĩa làm được sự nghiệp tới cùng, ở địa vị cao mà không kiêu, địa vị thấp mà không lo (coi tòan văn ở phần I, Chương II . .. )Lời khuyên đó cũng tựa như lời khuyên ở hào 2

九 四: 或 躍, 在 淵, 无 咎.

Cửu tứ: Hoặc dược, tại uyên, vô cữu.

Dịch: Hào 4, dương: như con rồng có khi bay nhảy, có khi nằm trong vực (biết tùy thời như thế thì) không lầm lỗi.

(Có người dịch là như con rồng có khi bay nhảy trên vực sâu, không lầm lỗi).

Giảng: Hào 4 là dương ở vị (ngôi) âm, như vậy là bất chính và bất trung; nó lại cũng như hào 3 ở địa vị chông chênh, mới rời nội quái tiến lên ngọai quái, tiến chưa chắc đã tốt mà thóai thì dở dang. Cho nên phải thận trọng xem xét thời cơ, nên tiến thì tiến (như con rồng bay nhảy) nếu không thì chờ thời (con rồng nằm trong vực), cho nên Chu Công dùng chữ “hoặc”: không nhất định.

Tuy bất chính, bất trung như nó có chất cương kiện (hào dương trong quẻ Càn) nên cũng như hào 3 là bậc quân tử , biết giữ tư cách, biết tùy thời, và rốt cuộc không có lỗi.

Hào này chỉ khác hào 3 ở chỗ nó có thể tiến được, còn hào 3 chưa thể tiến được.

Văn ngôn không giảng gì khác, chỉ khuyên người quân tử tiến đức tu nghiệp, chuẩn bị cho kịp thời để có lúc ra giúp đời.

九 五 : 飛 龍 在 天 , 利 見 大 人.

Cửu ngũ: Phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân.

Dịch: Hào 5, dương: Rồng bay trên trời, ra mắt kẻ đại nhân thì lợi.

Giảng: Hào 5 là dương ở vị (ngôi) dương cao nhất trong quẻ lại đắc trung (ở giữa ngọai quái), như vậy là có đủ những điều tốt,vừa cao quí vừa chính trung. Nó lại được hào 2 ở dưới ứng với nó, mà hào 2 cũng cương kiện, đắc trung như nó. Nó là hào tốt nhất trong quẻ , cho nên ví nó với con rồng bay trên trời, và ngôi của nó là ngôi chí tôn (ngôi vua).

Chữ đại nhân (người có tài đức) trỏ cả hào 5 lẫn hào 2: hai đại nhân ở hai hào đó nên gặp nhau, hợp lực với nhau thì có lợi.

Văn ngôn giảng thêm rất rõ và hay về bốn chữ lợi kiến đại nhân: “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu; nước chảy xuống thấp, lửa bén tới chỗ khô; mây bay theo rồng, gió bay theo cọp, thánh nhân xuất hiện mà vạn vật đều trông vào (…) Mọi vật đều theo loài của nó” (Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu; thủy lưu thấp, hỏa tựu táo, vân tòng long, phong tòng hổ, thánh nhân tác nhi vạn vật đổ (…) các tùy kỳ loại dã).

上 九 . 亢 龍 有 悔.

Thượng cửu: Kháng long hữu hối.

Dịch: Hào trên cùng, dương: Rồng lên cao quá, có hối hận.

Giảng: hào dương này ở trên cao của quẻ , cương kiện đến cùng rồi, như con rồng bay lên cao quá, không xuống được nữa, nếu vẫn còn hành động thì sẽ có điều đáng tiếc, vì lẻ thịnh quá thì tất suy, đầy thì không được lâu, (doanh bất khả cửu).

Văn ngôn: giảng thêm: Hào 5 địa vị rất quí (vì ở trên cao hơn hết) nhưng không có ngôi, cao mà không có dân (vì hào 5 là vua mới có dân), các người hiền ở dưới mình mà không giúp đỡ mình (vì hào 3 tuy ứng với hào 6 nhưng lại ở nội quái, mà giữa hào 3 và hào 6 có hào 5 là vua làm chủ hào 3 rồi) cho nên hào 6 mà họat động thì tất có điều phải ăn năn.

Tóm lại thời của hào này là thời không nên họat động gì cả, sớm rút lui đi thì còn giữ được tư cách người quân tử .

用 九 . 見 群 龍 無 首 . 吉 .

Dụng cửu: Kiến quần long vô thủ. Cát.

Dịch: (nghĩa từng chữ) Dùng hào dương: thấy bầy rồng không có đầu, tốt.

Chú thích: chu Hi giảng: Gặp quẻ Càn này mà sáu hào (dương) đều biến (ra âm) cả, tức là cương mà biến ra nhu, thì tốt. Thánh nhân dùng cái tượng bầy rồng (sáu hào dương) mà không đầu (tức là nhu) để diễn ý đó. J. Legge, R. Wilhelm đều hiểu theo Chu Hi mà không giảng gì thêm. Duy Phan Bội Châu đưa thêm ý kiến riêng, đại ý bảo “Dụng cửu” không phải là một hào. “quần long vô thủ” là sáu hào dương đều biến cả. Con rồng họat động khác thường là cốt ở cái đầu. Sáu hào dương đã biến (ra âm) hết thì không còn hình tích họat động nữa, cho nên gọi là rồng không đầu.

Nhưng cụ cũng nhận rằng đó chỉ là mặt chữ mà giải thích nghĩa đen thôi, chứ cái “ý thâm diệu của thánh nhân thì sâu xa huyền bí quá” Nghĩa là lời kinh tối nghĩa quá, cụ không hiểu nổi.

– Cao Hanh hiểu khác, bảo “bầy rồng không đầu, nghĩa là bầy rồng đã bay lên trời, đầu bị mây che, nên chỉ thấy mình và đuôi. Đó là cái tượng rồng cưỡi mây lên trời, tốt”.

Cách giảng đó dễ hiểu, nhưng hai chữ “dụng cửu” có nghĩa gì đây, phải là một “hào” mới không, thì ông không cho biết. Cứ theo cách ông giảng “dụng lục” của quẻ Khôn – coi quẻ sau – cho “dụng lục” là một hào, thì chắc ông cũng cho “dụng cửu” của quẻ Càn là một hào. Nếu vậy thì “hào” này ra sao? Có phải là cả sáu hào của quẻ đều từ dương biến ra âm, như Chu Hi giảng không ?

– Tào Thăng giải nghĩa khác nữa: “Cửu “ là hào dương biến; “dụng” là lợi dụng, “vô thủ” là không có đầu mối. Đạo Càn (quần long) vận hành, biến hóa kỳ diệu, vạn vật nhờ đó mà thành công, nhưng cái lý do nó không thể thấy được (vô thủ), hễ dùng nó hợp thời thì tốt.

Vậy cơ hồ Tào không cho “dụng cửu” là một hào, mà chỉ có nghĩa là cách dùng quẻ Càn.

– Chu Tuấn Thanh trong “Lục thập tứ quái kinh giải” – Cổ tịch xuất bản xã – đưa ra một cách giải nữa cho “Dụng cửu” là tóm lại nghĩa của sáu hào thuần dương, Thuần dương là cái đức của trời, là gốc của vạn vật không có gì ở trước nó được, ở trước nó thì xấu, theo sau nó thì tốt. Đó là ý nghĩa của hai chữ “vô thủ” Nghĩa này theo tôi, khó chấp nhận được.

– Nghiêm Linh Phong trong “Chu Dịch tân luận” – Chính trung thư cục –dẫn nhiều thuyết nữa.

Thuyết của Vương An Thạch, Đô Khiết, cho câu: “dụng cửu: Kiến quần long vô thủ, cát “không phải là một tiết riêng mà chỉ là tiếp theo tiết Thượng cửu”

Thuyết của Ngô Nhân Kiệt, bảo các bản Dịch thời cổ, cho đến đời Phi Trực nhà Hán không có hai chữ “Dụng cửu”, đời sau thêm vào v.v. . .

Tóm lại câu “dụng cửu . .” này, tới nay vẫn còn là một bí mật, không ai hiểu rõ nghĩa, tòan là đóan phỏng. Nếu coi nó là một hào thứ bảy tức trường hợp cả 6 quẻ Càn biến một lần ra âm hết, thì trường hợp đó cả ức triệu lần chưa chắc đã xảy ra một (1), các sách bói, đóan số không khi nào dùng nó cả. Về triết lý, thì ý nghĩa của nó chẳng có gì đặc biệt, cũng chỉ là biết cương mà cũng biết nhu, hợp thời mới tốt.

* PHỤ LỤC

Dưới đây chúng tôi trích dẫn vài cách giải hào 1 qủe Càn của một số học giả gần đây, để độc giả so sánh.

– Chu Tuấn Thanh (sách đã dẫn)

“rồng có 81 cái vảy ! đủ chín lần chín, cho nên dùng nó để tượng trưng hào dương. Rồng tới tiết xuân phân thì lên trời, tiết thu phân thì nấp dưới vực. Hào dương ở vị trí 1, tức là tháng giêng theo lịch nhà chu, tháng tí. Khí dương lúc đó mới động ở suối vàng (hòang tuyền) chưa manh nha, còn tiềm phục, như người có thánh đức ở giữa đám người ngu . . .cho nên chưa dùng được, tài đức chưa thi thố được.”

– Tào Thăng (sách đã dẫn).

“người thời cổ thấy con rồng khéo biến hóa, cho nó là thần kỳ, dùng nó để đại biểu năng lực. Nếu lấy chữ “long” (rồng) làm chữ “năng” (lực) mà giảng thì con rồng ở dưới vực không dùng được, vì năng lực nó còn tiềm phục, chưa hiện, chưa sinh tác dụng được (. . .)

Dùng cái phép của hào mà giảng thì hào 1 ở dưới hào 2, hào 2 chưa động thì hào 1 không thể động trước. Hào 1 biến động quẻ Càn này thành quẻ Cấu (trên là Thiên, dưới là Phong) thì cũng chỉ là mới gặp “ở âm” (?) mà thôi, cho nên bảo là rồng còn ẩn náu, chưa dùng được (Cấu có nghĩa là gặp).

– Cao hanh (sách đã dẫn) Tôi chỉ trích câu cuối: “con rồng còn ẩn ở dưới vực mà không hiện, có cái “tượng” tĩnh mà không động. Bói được quẻ này thì không nên thi hành.

Chúng tôi không biết các học giả Trung Hoa gần đây còn những cách giảng nào mới mẻ hơn không, chứ ba cách trên không kỹ gì hơn cách của người xưa, mà cũng chẳng phát huy thêm được gì.

1. Động hào nhất – Quẻ số 001 (Thượng Thượng)

a. Nguyên văn:

Thiên môn nhất quải bảng, dự định xuất tiêu nhân.Mã tê phương thảo địa. Thu cao thính lộc minh.

b. Dịch nghĩa:

Cửa trời treo bảng đề danh,
Càng treo giá ngọc, càng dành phẩm tiên.
Âm vang ngựa thét băng miền,
Cuối thu ồ ạt vẫn truyền tiếng nai.
Cửa trời treo bảng đứng đầu, định rằng đoạt giải hơn người.
Ngựa hí trên đồng cỏ thơm. Thu gần qua nghe tiếng nai kêu.

c. Lời bàn của Thông Huyền Lão Nhân:

Lời quẻ nói “Tiềm long, vật dụng.” (Rồng lặn, tạm thời chớ có hành động). Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này cầu việc gì cũng may mắn, cũng toại nguyện, vì câu thứ ba ví người bói quẻ giống như “ngựa hí trên đồng cỏ thơm” và câu thứ tư còn nói thêm rằng “thu gần qua, nghe tiếng nai kêu”. Mùa thu là ảm đạm, đã gần qua; “lộc” cũng là nai, cũng tượng trưng cho “tài lộc:. Ý quẻ muốn nói tài lộc sắp đến. Cầu danh, cầu việc đều thành.

Quẻ này chủ: Con Rồng hiện trên ruộng, rất lợi khi gặp người đại nhân quân tử. Được thì suốt ngày nơm nớp, chiều tới thì lo lắng giữ gìn. Bởi thế nên lấy đó mà tự cường ở trên thì không kêu, ở dưới thì không lo. Thật là Đại cát vậy.

Quẻ này cầu bất cứ việc gì cũng đều được may mắn, vì câu thứ ba tả rằng “Nay người xin cầu như con ngựa hí ngoài đồng cỏ xanh tươi” và câu thứ tư còn thêm rằng “Cuối thu được nghe tiếng nay”. Cảnh thanh thản an nhàn biết bao, vậy còn gì hơn nữa. Ý quẻ muốn nói rằng: cầu xin việc gì đều toại nguyện. Buổi phú quý, vinh hoa ắt đến, và hoá rủi thành may, đó là một quẻ đại cát, cầu danh cầu việc đắt thành vậy. Hơn nữa, câu thứ nhất đã nói rất rõ rồi “Cửa trời treo bảng đề danh”, cầu danh, cầu mưu, cầu lợi đều đạt. Còn lo gì nữa.

Số hên: 10, 11, 21, 31, 1. Nếu muốn đánh số hên, đều đạt thành mỹ mãn một quẻ tốt cho việc cầu lợi.

2. Động hào nhị – Quẻ số 002 (Thượng Thượng)

a. Nguyên văn:

Địa hữu thần, thậm uy linh. Hưng bang, phục quốc, tôn chủ tý dân

b. Dịch nghĩa:

Đất này là đất có thần
Hữu cầu tất ứng, bội phần hiển linh,
Hưng bang Quốc phụ dân sanh,
Khuôn phù đức cả, thanh bình công cao.
Đất có thần của đất, rất uy nghiêm và hiển linh. Giúp nhà, giúp nước, phò vua và che chở cho dân.

c. Lời bàn của Thông Huyền Lão Nhân:

Lời quẻ nói “Hiện long tại điền, lợi hiện đại nhân” (Rồng hiện ra ở ruộng, bậc đại nhân nên xuất hiện để thi thố.)

Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ mưu tính bất cứ việc gì đều được vừa ý. Người được quẻ này, muốn xem về công việc làm ăn thì sự nghiệp vững bền, cầu tài thì có tiền, cầu danh thì được lên chức, cầu duyên thì được toại long. Dù quẻ rất tốt, nhưng cũng cần phải cố gắng mới được.

Quẻ này chủ mưu vọng bất cứ một chuyện gì đều được thuận toại. Quan lại bói xem thì có cái vui thăng quan tiến chức. Kẻ sĩ bói xem thì có cái mừng đạt được công danh. Kẻ muốn xem về tiến trình thì phúc lộc lâu dài. Người muốn xem về sự nghiệp thì cơ sở vững bền. Tất cả đều tốt đẹp, duy chỉ có cầu tài thì vô vọng.

Quẻ này khá lắm, cầu mưu việc gì đều không trở ngại. Cầu tài có tiền, cầu công danh được lên chức, cầu duyên nợ được toại lòng, nhưng phải tận tụy và thành tâm với việc cầu, đừng làm những đều trái với lương tâm.

Bởi vì ta đã hiểu rằng: Đức là tất cả, đức tạo nên hạnh phúc cho người. Cho nên quẻ chú ý khuyên nhủ người nên tạo đức thêm dày, để được trọn việc sở cầu.

Căn cứ ý quẻ nói trên, sự cầu xin của người, hãy nén lòng góp sức người trong gia đình, đừng nản chí, ráng sức tiến tới, thì sẽ giải quyết được vấn đề của người trông mong trong mai sau. Dẫu là quá tốt đẹp, mọi sự hanh thông, chỉ hiềm cần cố gắng mới được. Chớ không phải việc dễ, mà chẳng cố. Đánh số rất tốt. Số hên: 22, 20, 2, 32.

3. Động hào tam – Quẻ số 003 (Trung Trung)

a. Nguyên văn:

Trường An hoa, bất khả cập, xuân phong trung, mã đề tật. Cấp tảo gia tiên, sậu nhiên sinh sắc.

b. Dịch nghĩa:

Trường An hoa nở khó thay,
Gió xuân, vó ngựa, tràn đầy đường xa.
Thời lai, mệnh xấu sẽ qua,
Cành cây nở rộ sắc hoa trổ màu.
Hoa Trường An, coi chừng không kịp. Vó ngựa phi trong gió xuân. Hãy mau ra roi, bỗng nhiên sắc hoa thành tươi thắm.

c. Lời bàn của Thông Huyền Lão Nhân:

Lời quẻ nói “Quân tử Chung nhật kiền kiền, tịch dịch nhược, lễ vô cữu” (Người quân tử suốt ngày nỗ lực không ngừng nghỉ, chiều tối đến mà vẫn còn lo lắng, tuy ở cảnh nguy nhưng không tai vạ)

Theo ý thơ của Khổng Minh, người được quẻ này phải cố hết sức để tiến lên, Nếu chỉ ỷ than cậy thế, khong lo làm việc thì chẵng những không tiến mà còn lùi nữa là khác. Việc mưu cầu tuy còn xa xôi, nhưng đã định làm thì nên gấp rút thực hiện, đừng chần chờ kẻo lỡ dịp may. Nên làm ăn ở nơi xa, cần trì chí, Quẻ này nếu cầu tài chỉ có thể đạt được một nửa và phải gắng sức.

Có nếm được cái khó bậc nhất trong muôn khó mới là người thượng đại nhân. Người xin được quẻ này nên hết sức tiến lên. Nếu chỉ ỷ thân cậy thế không lo hoạt động thì chẳng những không tiến mà còn thoái nữa là khác.

Những việc cầu xin của người. Như là bông hoa ở nơi kinh kỳ Trường An, thơm đẹp vô cùng mà lại ở nơi xa xôi. Song chẳng sao cả, người chỉ nên tính toán kỹ lưỡng và nắm lấy cơ hội, rồi mau tiến tới thì sẽ thấy sáng lạn và thành đạt trong việc cầu xin.

Ý quẻ nói: Việc cầu xin tuy còn xa xôi, nhưng ý đã định làm thì nên thực hành ngay đi, đừng chần chờ nữa ắt sẽ lỡ dịp may. Vận may sắp đến cần đưa tay ra bắt lấy thì sẽ ắt thành.

Quẻ dạy: Làm ăn phải đi xa chổ khác. Mưu sự ở một chỗ chẳng thông, cần trì chí. Quẻ này nếu cầu tài chỉ có thề đạt một nửa và phải gắng sức đi xa mới mong. Số hên: 43, 13, 23, 33, 30, 3.

4. Động hào tứ – Quẻ số 004 (Trung Trung)

a. Nguyên văn:

Xuân hoa kiều mỵ, bất cấm vũ đả phong phiêu. Thu cúc phân phương, phản nại sương lăng tuyết ngạo.

b. Dịch nghĩa:

Hoa Xuân khoe sắc màu tươi,
Nhưng không chịu nổi dập vùi gió mưa.
Cúc cô đơn, nở trễ mùa,
Tuyết sương dầu dãi vẫn thừa sắc hương.
Hoa mùa xuân rất xinh đẹp nhưng không cấm được gió dập mưa
vùi. Cúc mùa thu thơm ngát cũng đâu chịu nổi tuyết sương dãi dầu.

c. Lời bàn của Thông Huyền Lão Nhân:

Lời quẻ nói “Hoặc dược tại uyên.” (Như con rồng vùng vẫy nơi vực sâu.)

Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về người có chí lớn muốn đắc ý phải đợi lúc về già. Hai câu “Hoa mùa xuân rất xinh đẹp, nhưng không cấm được gió dập mưa vùi.” là có ý nói cho dù là kẻ tài năng cũng không chịu nổi “gió mưa dập vùi”. Hơn nữa, lời quẻ nói người quân tử giống như con rồng đang vùng vẫy ở chố vực sâu, ý nói cuộc đời phong trần lắm gian nan lận đận. Cầu tài nên chờ đợi thời vận chưa tốt lắm.

Quẻ này chủ đại khí vãn thành, người có chí lớn muốn đắc ý phải lúc về già. Ví thử lúc thanh xuân đà đắc ý thì rồi đây cũng như Cam La đời Tần, Vương Bột đời Đường mà thôi. Vũ đã phong nhiêu: gió đạp mưa vùi ý nói gian nan lận đận cuộc đời phong trần như Cam và Vương. Người cầu được quẻ này, muốn cầu xin việc gì, hãy nên hoãn lại, hãy dò dẫm tiến tới mới hay. Bởi như hoa xuân rất tươi đẹp nhưng đâu chịu nổi mưa đùa gió tạt. Ngược lại hoa cúc tuy sanh trưởng trong mùa thu khí hậu hàn lạnh mà vẫn thơm tươi, chẳng sợ tuyết sương gì cả. Vậy ý quẻ khuyên ta nên chờ thời, đừng nên quá nóng, dù giàu sang hay công danh có muộn mấy đi nữa cũng đừng buồn, vì như hoa Cúc mùa Thu nở muộn mà vẫn thơm tho, hương sắc tốt tươi, chờ đợi là tốt, nhứt là thay đổi chổ ở, nơi làm càng không nên nóng ruột.

Quẻ dạy: Nhẫn nhẫn! Bôn ba chẳng qua thời vận. Công danh tiền bạc như mây nổi giửa trời, hơi nào phải lụy. Khương Tử Nha 80 tuổi mới nên danh, Cam La 12 tuổi đã nên phận, thì đã sao? Cầu tài nên chờ đợi. Chưa tốt lắm. Số hên: 44, 4, 14, 34, 24, 40.

5. Động hào ngũ – Quẻ số 005 (Thượng Thượng)

a. Nguyên văn:

Xuân lôi Chấn, hạ phong Tốn. Ngọa long khởi, mãnh hổ kinh. Phong vân hội hợp, cứu tế thương sinh

b. Dịch nghĩa:

Xuân Lôi chấn, Hạ giao hòa,
Rồng nằm thức dậy, giỡn già trên mây,
Cọp kia thấy sợ chạy ngay,
Gió mây hội họp dịp may cứu người.
Sấm mùa xuân, gió mùa hạ. Rồng nằm thức dậy, cọp dữ kinh hãi.
Gió mưa tụ hội, để cứu giúp dân đen.

c. Lời bàn của Thông Huyền Lão Nhân:

Lời quẻ nói “Phi Long tại thiên, lợi hiện đại nhân.” (Rồng bay trên trời, bậc đại nhân nên xuất hiện.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này nói đã đến thời cơ hành động, vận đã đến lúc hành thông. Cũng là lúc cho bậc đại nhân làm việc giúp đời. Vì vậy mọi mưu cầu ắt được toại nguyện. Cầu tài, cầu danh tốt nhất, nếu chờ ngày Dần, ngày Thìn thì tốt hơn.

Quẻ này chủ đợi thời hãy hành động, Người xin được quẻ này nên chờ nuôi tinh thần để chờ dịp thần phân phát, nhất thiết chớ khinh cử vọng động để đến nổi chịu hại. Thuận theo thì khá, ngược lại ắt mệt đó.

Quẻ này tốt lắm. Vận thời sắp đến lúc hanh thông, vì đã đến lúc thuận theo thiên thời. Bởi quẻ nói: Mùa Xuân có sấm động, mùa hạ có gió đông, đó là hiện tượng của trời đất giao thái, thì con Rồng ắt đến lúc tung hoành trong mây, mà Cọp dữ kia cũng phải kinh sợ, và khi gió mây tụ họp càng là lúc đắc chí của Rồng. Hơn nữa, Rồng là tượng trưng cho thần oai cao thượng, thanh bình an vui. Cho nên người cầu xin được quẻ này, sở cầu mưu ắt được toại nguyện.

Tuy nhiên, thời vận hanh thông cần phải chờ có cơ duyên, như câu chót trong quẻ nói “gió mây hội họp, mới là dịp may thành đạt” vậy.

Quẻ dạy: Cầu tài, cầu danh thì tốt nhất, nếu cần chờ ngày Dần, ngày Thìn thì đẹp hơn. Vì quẻ có biểu tượng Rồng và Cọp. Đánh số nên lấy con nầy làm căn bản. Tốt lắm. Số hên: 5, 15, 25, 35, 50, 55.

6. Động hào lục – Quẻ số 006 (Hạ Hạ)

a. Nguyên văn:

Phi huyền phi ảo, phi thiển phi thâm. Nhất cá diệu đạo, trước ý sưu tầm

b. Dịch nghĩa:

Không huyền chẳng ảo cũng không sâu,
Việc tính cầu xin từ khởi đầu.
Có dốc lòng đi, nên khéo léo,
Dò tìm hay dở tránh âu sầu.
Không huyền mà cũng chẳng ảo, không cạn mà cũng không sâu.
Có một con đường hay, hãy khéo léo mà tìm

c. Lời bàn của Thông Huyền Lão Nhân:

Lời quẻ nói “Hãng long hữu hối” (Rồng ở trong đầm lầy, có hối hận)

Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này ngụ ý khuyên nên đi tìm cái đạo huyền diệu cho cuộc đời mình. Thực ra thì “diệu đạo” chẳng ở đâu xa, chỉ là mình không giác ngộ đố thôi. Người được quẻ này nên lưu tâm, phải tính toán kỹ lưỡng từ đầu, đừng để rơi vào hoàn cảnh khốn cùng. Muốn thành đạt ý nguyện thì càng phải khéo léo dò dẫm từng bước tiến tới, chớ quá nóng vội mà gây ra những điều không hay. Quẻ này cầu tài không mấy lợi. Cầu danh thì phải cố gắng nhiều may ra mới thành.

Tưởng rằng điều khó hiểu ai ngờ đã tìm ra. Lâu nay không biết chỉ tại ít để ý tới việc đời, không nghiên cứu kỹ sự vật đó thôi. Quẻ này ngụ ý khuyên ta nên đi tìm tìm lấy cái đạo huyền diệu cho cuộc sống của mình. Thực ra thì cái diệu đạo chẳng ở đâu xa, chỉ là sự giác ngộ của mình đó thôi.

Người cầu xin được quẻ này nên lưu tâm về việc đã định cầm mưu và phải tính toán kỹ lưỡng từ đầu, bởi trong quẻ câu thứ nhất nói rất là tế nhị. Hơn nữa, ta muốn thành đạt theo ý nguyện thì càng nên khéo léo và dò dẫm từng bước tiến, chớ quá nóng nảy gây những điều không hay.

Ý quẻ muốn khuyên nhủ ta thận trọng, cân nhắc trong mọi công việc nhất là việc đang tính làm ăn tiểu tâm nghiên cứu chu đáo, rồi hãy tiến tới thì mới mong thành đạt. Sách có câu “Dục tốc bất đạt” vậy.

Quẻ vừa phải. Cầu tài không mấy lợi. Cầu danh phải cố gắng, may ra mới mong thành đạt. Nhẫn Nhẫn. Việc đánh số, cầu hên xuôi, ít thuận lợi. Thận trọng. Số hên: 16, 26, 36, 6, 60, 66.

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Một người bình luận WordPress
2 năm trước

Hi, this is a comment.
To get started with moderating, editing, and deleting comments, please visit the Comments screen in the dashboard.
Commenter avatars come from Gravatar.

Danh mục